Sự đồng thuận của chuyên gia về chẩn đoán và điều trị viêm phổi do Mycoplasma pneumoniae ở trẻ sơ sinh (2024)
TôiycoplasmaPviêm phổiPneumonia (MPP) là cộng đồng phổ biến nhất viêm phổi mắc phải ở trẻ em trên 5 tuổi tại Trung Quốc. Là một bệnh không điển hình quan trọng tác nhân gây bệnh đường hô hấp, các biểu hiện lâm sàng của nhiễm trùng MPP ở trẻ em là phức tạp và không chắc chắn. Đặc biệt là ở trẻ sơ sinh có hệ thống miễn dịch chưa hoàn thiện được phát triển, MP đã thu hút sự chú ý rộng rãi trong cộng đồng y khoa nhi khoa trên toàn thế giới trong những năm gần đây.
TÔI. Đặc điểm của MPP sơ sinh
MPP sơ sinh thường gặp ở trẻ sơ sinh muộn hơn 2 tuần sau khi sinh, chủ yếu thông qua tiếp xúc trực tiếp giữa trẻ sơ sinh vànhững người bị nhiễm. Biểu hiện lâm sàng của MPP sơ sinh tương đối tiềm ẩn và đa dạng, và cần đặc biệt chú ý đến các trường hợp sau:
1) Sốt không đều hoặc kéo dài, và sốt không cải thiện đáng kể hoặc tái phát sau khi điều trị bằng kháng sinh thông thường.
2) Các triệu chứng về hô hấp phức tạp và đa dạng, bao gồm ho từng cơn (đặc biệt là ho kịch phát, ho co thắt hoặc ho khan không có đờm), tăng nhịp thở, thở khò khè, thậm chí khó thở, vỗ cánh mũi và dấu hiệu ba màng phổi khi hít phải, v.v. Khám thực thể có thể nghe thấy ran phổi hoặc bất thường trên phim X-quang ngực, chẳng hạn như bóng mờ một bên hoặc hai bên, thay đổi kẽ hoặc phổi bị nén chặt.
Ngoài ra, các biểu hiện ngoài phổi cũng cần cảnh giác: 1) tiêu hóacác triệu chứng tích cực, chẳng hạn như giảm sữalượng hấp thụ, khó khăn khi ăn, nôn mửa và tiêu chảy là những biểu hiện ngoài phổi phổ biến nhất của MPP; 2) Ncác triệu chứng bệnh lý như buồn ngủ, cáu kỉnh và co giật; 3)Tôicác biểu hiện liên quan đến hệ thống tim mạch, chẳng hạn như loạn nhịp tim, tổn thương cơ tim, viêm màng ngoài tim, v.v.; 4) Tôicác biểu hiện liên quan đến hệ thống máu, chẳng hạn như tan máu, huyết khối, đông máu rải rác trong lòng mạch, v.v.; 5) tổn thương niêm mạc da và các biểu hiện khác.
Khuyến nghị 1:
Chú ý phát hiện và đánh giá sớm MPP ở trẻ sơ sinh, xét nghiệm MP được khuyến cáo cho những trẻ có chỉ định sau.
1) Mẹ có tiền sử nhiễm trùng đường hô hấp trong thời kỳ mang thai, xét nghiệm bệnh lý nhau thai gợi ý viêm màng ối hoặc viêm mạch, và kết quả chụp chiếu cho thấy thâm nhiễm phổi đa ổ và đông đặc xảy ra trong vòng 2 tuần sau khi sinh.
2) Tiếp xúc với bệnh nhân bị nhiễm trùng đường hô hấp và có triệu chứng hô hấp sau khi sinh, các triệu chứng hô hấp như ho (đặc biệt là ho từng cơn, ho co thắt hoặc ho khan không có đờm), nhịp thở tăng, thở khò khè, thậm chí khó thở, chảy nước mũi. vỗ cánh, và dấu hiệu hít phải trifossa, chụp hình ngực xác nhận viêm phổi, kèm theo sốt không đều hoặc sốt kéo dài. Không có cải thiện về các triệu chứng lâm sàng hoặc hình ảnh sau khi điều trị bằng thuốc kháng khuẩn thông thường.
Khuyến nghị 2:
Biểu hiện lâm sàng của MPP sơ sinh rất đa dạng, có nhiều triệu chứng ngoài phổi đi kèm nên cần phát hiện và quyết định có nên làm xét nghiệm liên quan đến MP kịp thời hay không.
II. Phương pháp xét nghiệm MPP sơ sinh trong phòng thí nghiệm
1. Các triệu chứng lâm sàng của MPP ở trẻ sơ sinh không điển hình và việc phát hiện trong phòng thí nghiệm có ý nghĩa rất lớn trong việc chẩn đoán và điều trị MPP ở trẻ sơ sinh.
1) Nuôi cấy mầm bệnh MP vẫn là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán nhiễm trùng MP ở trẻ sơ sinh. Các mẫu xét nghiệm bao gồm tăm bông họng, đờm, dịch rửa phế quản phế nang, v.v. Tuy nhiên, nuôi cấy MP đòi hỏi điều kiện đặc biệt, thời gian nuôi cấy dài và kết quả chậm nên không phải là lựa chọn đầu tiên để phát hiện nhiễm trùng MP ở trẻ sơ sinh.
2) Các phương pháp thông thường cũng bao gồm phát hiện kháng thể huyết thanh, chẳng hạn như kháng thể MP-IgM, IgG và IgA. IgM kháng thể thường xuất hiện 4 đến 5 ngày sau khi nhiễm trùng và đạt đỉnh điểm sau 3 đến 4 tuần sau đó, kết quả dương tính cho thấy nhiễm trùng gần đây.Việc phát hiện kháng thể MP-IgM chỉ cần một lượng máu nhỏ và có thể cho kết quả nhanh chóng, nhưng kết quả xét nghiệm âm tính không thể loại trừ nhiễm trùng MP.
3) Ngoài ra, phát hiện trực tiếp kháng nguyên MP cũng là một phương pháp quan trọng để phát hiện nhiễm trùng MP, có độ đặc hiệu cao nhưng độ nhạy thấp và dễ cho kết quả âm tính giả.
2. Xét nghiệm MP-IgM máu ngoại vi hoặc xét nghiệm kháng nguyên MP bằng tăm bông họng được khuyến cáo là lựa chọn đầu tiên cho trẻ em ngoại trú có thời gian mắc bệnh dưới 7 ngày và có tiền sử tiếp xúc với nhiễm trùng MP. Ngoài ra, việc ứng dụng các kỹ thuật sinh học phân tử hiện đại đã cải thiện đáng kể hiệu quả chẩn đoán:
1) Phát hiện axit nucleic MP: bao gồm DNA hoặc RNA, có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, khi trẻ nhập viện nghi ngờ mắc MPP, khuyến cáo sử dụng dịch tỵ hầu hoặc đờm để phát hiện axit nucleic MP là lựa chọn đầu tiên.
2) Giải trình tự thế hệ tiếp theo metagenomics (mNGS): Sự hiện diện của MP có thể được xác định từ các mẫu mầm bệnh hỗn hợp thông qua phân tích metagenomics vi khuẩn, phù hợp đối với trẻ em có kết quả xét nghiệm vi khuẩn thường quy âm tính (xét nghiệm nuôi cấy hoặc axit nucleic) và không đáp ứng với 3 ngày điều trị theo kinh nghiệm, dịch rửa phế nang được chọn làm loại mẫu ưu tiên, tiếp theo là mẫu đờm hoặc mẫu dịch tỵ hầu lấy khi đặt nội khí quản.
Khuyến nghị 3:
Phương pháp phát hiện mầm bệnh trong phòng thí nghiệm cho trẻ sơ sinh MPP nên làđúng cáchđã chọn.
1. Đối với trẻ em nhập viện, khi nghi ngờ lâm sàng nhiễm trùng MP, cần lấy dịch họng hoặc Xét nghiệm MP-DNA đờm hoặc nuôi cấy MP được khuyến cáo để chẩn đoán bệnh ở trẻ sơ sinh Thủ tướng Chính phủ.
2. Đối với trẻ em ngoại trú có tiền sử tiếp xúc với nhiễm trùng MP, xét nghiệm máu ngoại vi Kháng thể MP-IgMhoặc kháng nguyên MP trong tăm bông họng được khuyến nghị là phương pháp phát hiện ưu tiên. Kết quả dương tính có thể chỉ ra tình trạng nhiễm MP gần đây, trong khi kết quả âm tính không thể loại trừ hoàn toàn tình trạng nhiễm MP và cần kết hợp phân tích toàn diện kết quả phát hiện với các đặc điểm lâm sàng và hình ảnh. Nếu cần, có thể tiếp tục phát hiện MP-DNA trong tăm bông họng.
Công ty TNHH Công nghệ sinh học Xiamen Wiz đã phát triển xét nghiệm MP-IgM nhanh để bác sĩ sử dụng, giúp ích cho quá trình chẩn đoán.